Hệ thống bảo hiểm ngày càng kém “hào hiệp”
Nhiều người lao động Nam Mỹ đến Nhật Bản vào cuối những năm 1980, khi nền kinh tế nước này đang phát triển mạnh mẽ, người dân Nhật ngày càng “có tuổi”, nhân công lao động giản đơn thiếu hụt nghiêm trọng. Những người được Chính phủ Nhật cấp giấy phép lao động lúc ấy phần lớn là “hậu duệ” của người Nhật xưa di cư sang Nam Mỹ vào đầu thế kỷ trước. Từ 4.000 năm 1990, hiện nay số này lên tới 316.000 người, thường làm những công việc gọi là “3K” - kitsui (nặng nhọc), kitanai (bẩn), kiken (nguy hiểm). Do kinh tế suy thoái, nhiều người trong số họ mất việc làm nhưng không được bảo hiểm, mất nhà và khó tìm được việc làm khác, vì phần lớn không nói tốt tiếng Nhật… |
Cơn khủng hoảng kinh tế tác động đến mỗi nước không giống nhau, nhất là khi người ta chưa biết rõ nó chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn hay sẽ là một cơn suy thoái kéo dài. Trong hai trường hợp, các giải pháp xã hội nhằm đối phó với tình trạng thất nghiệp sẽ rất khác nhau.
Trong trường hợp “ngắn hạn” thì tỷ lệ thất nghiệp hiện nay thấp hơn những con số từng được biết đến. Ở Pháp, Ủy ban châu Âu dự báo 9,8% năm 2009, so với con số trung bình là 11% từ 1993 tới 1998.
Ở Mỹ, tỷ lệ người thất nghiệp đạt mức kỷ lục 25% vào năm 1933, so với 7,3% dự báo năm nay. Năm 1994, tỷ lệ thất nghiệp ở Tây Ban Nha là 24,2%.
Theo giáo sư Jean-Claude Barbier thuộc Trung tâm Nghiên cứu kinh tế Sorbonne (Pháp), “hệ thống bảo hiểm hiện nay phần nào có thể giải quyết được ảnh hưởng của cơn khủng hoảng nhưng không phải cho tất cả mọi tầng lớp lao động, ở mọi nước khác nhau”.
Đan Mạch là một trong những nước có hệ thống bảo hiểm xã hội tốt nhất. Người lao động thất nghiệp ở nước này có thể, trong 4 năm tiếp theo, lãnh tiền trợ cấp hằng tháng tương đương với 82% mức lương cuối cùng, không quá 2.000 euro/tháng.
“Những chính sách xã hội “hào hiệp” như ở Đan Mạch, Đức hay Pháp, sẽ là những chính sách thích hợp nhất có thể “giảm chấn” cơn khủng hoảng”, ông Barbier phân tích. Thế nhưng, những năm gần đây, chính sách bảo hiểm xã hội của các nước ngày càng siết chặt, như ở Anh dưới thời Thủ tướng Thatcher, chính sách cải cách Hartz ở Đức thời Thủ tướng Schroder hay ở Pháp, Tây Ban Nha kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính 1992…
Ở châu Âu, hệ thống bảo hiểm của các nước thuộc vùng Balte vốn rất yếu kém, giờ đây hầu như bị “phá sản”. Anh là nước đầu tiên, vào năm 1911, thành lập hệ thống bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc, nay chỉ còn chi tiêu 0,67% GDP cho thị trường lao động, với các khoản trợ cấp thất nghiệp “trọn gói” không nhiều lắm. Xu hướng chung của các nước là giảm thời gian và giảm số tiền trợ cấp, thúc đẩy người thất nghiệp đi tìm việc làm.
Ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia
<
0 comments:
Post a Comment